Diễn biến Khởi_nghĩa_Giàng_Pả_Chay

Nổi dậy

Vừ Pả Chay bắt đầu kêu gọi nhân dân trong bản nổi dậy chống lại quan người Thái và chính quyền Pháp, sở dĩ là vì một năm Pháp bắt nộp ba lần thuế. Thuế gồm nhiều dạng như nộp thuốc phiện và bạc trắng. Dân chúng rất khổ cực, nhiều người phải bỏ bản, người bỏ thuế bị lùng bắt và phạt tiền, tịch thu tài sản.

Đồng bào Mông trong vùng hưởng ứng tham gia hàng ngũ nghĩa quân, suy tôn Vừ Pả Chay làm minh chủ. Đầu năm 1918, nghĩa quân tập trung ở khu rừng Thẩm Én, cách thị xã Lai Châu 3 km, quân số lúc này mới có vài trăm người. Ngay đêm hôm đó, nghĩa quân đột kích Mường Mún, giết chết em tri châu. Sau đó, quan tư cai quản đạo quan binh Lai Châu phải xuống điều đình, hứa sẽ trả lại ngay bạc trắng, thuốc phiện, thịt lợn, cánh kiến cho người Mông.

Nghĩa quân sau đó tiến sang Điện Biên, dọc đường kêu gọi đồng bào Mông tham gia ngày một đông, quân số lúc này lên tới hơn 700 người. Chính quyền thực dân Pháp lo sợ, ra lệnh cho thiếu tá Dez cầm quân đi càn quét tại căn cứ của nghĩa quân tại Pu Nhi. Lưu trữ 2019-12-18 tại Wayback Machine

Trận Nặm Ngám

Ngày 14 tháng 11, Pháp huy động một toán quân gồm 52 binh sĩ ở đại đội 6 thuộc trung đoàn 1 khố đỏ Bắc Kỳ, 17 lính ở đại đội 10 cũng thuộc trung đoàn đó, 20 lính công binh, 48 lính khố xanh và 58 lính dõng. Sau khi tập trung tại Mường Phăng, toán quân đó phân ra làm bốn đơn vị. Hai đơn vị chính do đại úy Viner và thiếu úy Gautier chỉ huy càn quét. Nghĩa quân phục kích sẵn các ngả đường đánh úp, quân khố đỏ hốt hoảng tháo lui, bỏ lại một số vũ khí, đạn dược và 15 lính bị thương.

Ngày 4 tháng 12, nghĩa quân diệt được một đoàn xe tiếp vận, thu được một số lớn lương thực, thực phẩm chuyển từ Yên Bái lên.

Trận Long Hẹ

Trong khi nghĩa quân ở Điện Biên thắng lợi liên tiếp thì một bộ phận do Cắm Xú, một tướng của Vừ Pả Chay, chỉ huy cũng hoạt động tại Long Hẹ (Thuận Châu). Tháo Khua Nu, thống lý Mông ở Long Hẹ phải trốn xuống thị xã Sơn La. Quân Pháp phái một đội và 40 lính khố xanh cùng lính dõng lên tuần tiễu. Nghĩa quân chặn đánh ở Tò Pú Cạu (dốc cách Long Hẹ 5 km). Qua hai ngày giao chiến, quân khố xanh buộc phải rút lui, bỏ lại 2 xác chết và 5 lính bị thương.

Hơn hai tháng sau, một trận đánh nữa xảy ra tại Sình Thàng, nghĩa quân giết chết thông ngôn do viên công sứ Sơn La cử lên để phủ dụ cùng hai chục lính chết và bị thương, buộc đội quân tiễu phạt phải tháo chạy.

Trận La Viếng

Tiếp đến, ngày 16 tháng 1 năm 1919, một trận đánh rất ác liệt xảy ra tại bản La Viếng, ngày 17 ở Ba Xúc và ngày 21 ở dãy núi đá hiểm trở Long Hẹ. Quân thuộc địa có hơn 300 tên do đại úy Chatry cầm đầu. Nghĩa quân mai phục trên các khe núi, lúc ẩn lúc hiện. Nghĩa quân tiêu diệt được 37 tên và 46 tên khác bị thương (trong đó có tên quan một Gautier và 1 chánh đội Pháp). Sau mấy trận đó, nghĩa quân chuyển cả lên Điện Biên.

Lan sang Lào

Đến tháng 4 năm 1919, thanh thế của nghĩa quân Pả Chay đã lan rộng khắp miền. Đồng bào Mông dọc hai bên sông Nậm U, Điện Biên Phủ, Sầm Nưa, Trấn Ninh (Thượng Lào) đều nổi dậy. Từ Lai Châu, Sơn La sang tới Thượng Lào, nghĩa quân làm chủ một vùng đất đai rộng lớn. Tháng 9 năm 1919, nghĩa quân đánh úp một đội quân Pháp ở Sênêphôn, giết chết tên trung úy Distanti cùng hơn 50 lính, thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng. Cánh quân này do viên ủy viên quân sự Chính phủ Pháp ở Luang Prabang điều khiển phải tháo chạy.

Với những thắng lợi đó, quân số của nghĩa quân từ hơn 2000 đã lên tới gần 6000 người, đa số là người Mông rồi đến người Lào, Thái...

Tháng 11 năm 1919, sau bốn ngày tấn công dữ dội, nghĩa quân chiếm hoàn toàn Mường Hợp (Tây Bắc).

Tiếp đó, từ cuối tháng 12 năm 1919 đến đầu năm 1920, rất nhiều trận đánh đã xảy ra giữa nghĩa quân và quân đội thuộc địa, gây cho Pháp nhiều thiệt hại. Quân Pháp huy động một lực lượng khá lớn gồm một tiểu đoàn lê dương, một trung đoàn lính khố đỏ ở miền xuôi lên tăng cường cho lực lượng quân sự của cả hai tỉnh Lai Châu và Sơn La đã có, cả lính khố xanh và lính dõng, tổng số 1850 người dưới quyền chỉ huy trực tiếp của viên trung tướng Puypeyroux.

Trận Sen Chi Ta

Đầu tháng 5 năm 1920, Puypeyroux chỉ huy quân từ đồng bằng lên bao vây chặt căn cứ nghiã quânquanh dãy núi Sen Chi Ta gần Mường Ngòi. Pả Chay một mặt phân nửa lực lượng mai phục trên núi, mặt khác bố trí một lực lượng gồm những nghĩa quân tinh nhuệ nhất bí mật án ngữ các khe núi hiểm hóc cao hơn ở gần xung quanh để sẵn sàng đối phó với địch. Qua 4 ngày đêm, trên núi Sen Chi Ta không thấy động tĩnh gì, Puypeyroux ngờ vực, cho một tiểu đội xung kích lên núi thám thính. Nhưng tốp lính này bị nghĩa quân phục kích giết và tóm gọn.

Trong lúc địch hết sức hoang mang, từ trên dãy núi xung quanh, một lực lượng nghĩa quân đang đêm bất ngờ đánh tập hậu vào đội hình địch. Lúc này, lực lượng nghĩa quân trên núi cũng ập xuống như thác đổ đánh giáp lá cà. Bị đánh bất ngờ, quân Pháp trở tay không kịp, rơi vào tình trạng hỗn loạn. Gần sáng, nghĩa quân rút cả vào núi. Trận này nghĩa quân giết được 40 lính Pháp (trong đó có 2 sĩ quan), làm bị thương hơn 200 lính.

Chiến thắng đó vang dội khắp nơi, tác động mạnh đến người Dao ở Bảo Hà thuộc châu Văn Bàn (Yên Bái) cũng nổi dậy đánh Pháp.

Đàn áp

Tháng 9 năm 1920, tướng Puypeyroux đệ trình lên toàn quyền Pháp kế hoạch tác chiến: Một là tập trung lực lượng gồm một số lượng lớn các đại đội ở Luang Prabang, Xiêng Khoảng và Mường Hợp đến bao vây chặt chẽ xung quanh chặng núi Pú Chom Chích và Pú Chom Chạng, đại bản doanh của nghĩa quân, với mục đích đánh bật được toàn bộ ra khỏi vị trí đó. Hai là bố trí sẵn sàng các đại đội ở Điện Biên Phủ và Sầm Nưa (Lào) phục kích chặn đường rút của nghĩa quân về phía bắc hay phía nam và truy kích trong trường hợp cần thiết.

Tháng 2 năm 1921, vì có kẻ trong hàng ngũ làm phản, nghĩa quân bị đánh úp bất ngờ, một số chỉ huy bị bắt, 30 người bị thương.

Tháng 7 năm 1921, trận đánh cuối cùng giữa nghĩa quân Pả Chay và địch đã diễn ra vô cùng khốc liệt tại dãy núi Pú Chom Chích. Tên, đạn hai bên bắn ra như mưa. Sau 9 ngày đêm phấn phân thằng bại, nhận thấy lương thực của nghĩa quân đã gần cạn, Pả Chay hạ lệnh mở đường máu đánh thốc xuống, thoát vòng vây của quân Pháp.

Pả Chay cùng một số người thân tín rút theo đường bí mật sang Lào. Một bộ phận còn lại của nghĩa quân vẫn tiếp tục đánh du kích.

Người Pháp tuyển lính đánh thuê người Khơ Mú để lùng giết Pả Chay và mua chuộc một số thân tín của ông. Vào ngày 17 tháng 11 năm 1921, Vừ Pà Chay bị bắn chết tại Muong Heup gần Luang Phra Bang. Thủ cấp cùng súng kíp của ông được trình lên quan Pháp làm bằng chứng cho thấy ông đã chết. Đầu năm 1922, phong trào tan rã hoàn toàn.